♥11A1♥ THPT ĐA PHƯỚC ♥ WE ARE ONE
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

♥11A1♥ THPT ĐA PHƯỚC ♥ WE ARE ONE

Forum của cộng đồng member 11a1 THPT Đa Phước
 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 Chiến tranh thế giới thứ hai

Go down 
2 posters
Tác giảThông điệp
heocon




Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 15
Điểm + Điểm + : 2
Join date : 14/04/2010

Chiến tranh thế giới thứ hai Empty
Bài gửiTiêu đề: Chiến tranh thế giới thứ hai   Chiến tranh thế giới thứ hai EmptyFri Apr 16, 2010 8:32 pm

Tình hình châu Âu

Đức Quốc Xã diễu binh chiến thắng ở Warszawa, thủ đô Ba LanVào thập niên 1920 và 1930, chế độ phát xít giành được quyền lực tại Ý và Đức trong khi các đảng phát xít khác cũng có nhiều thế lực trong chính trường Trung Âu. Riêng tại Đức, đảng Đức quốc xã và thủ lĩnh Adolf Hitler đang có hoài bão tạo ra một chính quyền kiểu mẫu. Họ đã khơi dậy và khai thác niềm tự hào dân tộc của người Đức, cũng như các nền tảng trụ cột của chủ nghĩa phát xít như sự tôn trọng quân đội và tuân thủ chính quyền. Các sự kiện này khiến Đức trở thành một nước hùng mạnh với quân đội mạnh được xây dựng trên nền tảng tư tưởng chiến lược, một nền công nghiệp phát triển nhanh trong môi trường khuyến khích thương mại và sự ủng hộ của dân chúng trong việc giành lại đất đai đã bị mất sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và danh dự quốc gia. Tại Ý, Benito Mussolini cũng dùng thuật hùng biện như Hitler, nhưng ít thành công hơn.

Sau khi Hitler lên nắm chính quyền, ông ta đặt ưu tiên vào việc tái tạo quân đội. Đức bỏ tiền ra để nghiên cứu các vũ khí nguy hiểm hơn và xây dựng các công nghiệp quân sự. Các thoả thuận với Liên Xô cho phép Đức huấn luyện các đơn vị lính trong bí mật, trái với Hiệp ước Versailles. Vào năm 1936, Hitler tái chiếm đóng Rhineland và vào năm 1938, Đức Quốc Xã sát nhập nước Áo.

Sau khi Áo bị sát nhập với Đức, Hitler đòi hỏi vùng Sudentenland từ Tiệp Khắc. Hai nước Anh và Pháp không muốn tham chiến cho nên đã vứt bỏ liên minh quân sự với Cộng hoà Tiệp Khắc và ký Thoả thuận München vào ngày 29 tháng 9 để nhân nhượng Đức. Đến ngày 16 tháng 3 năm 1939, Đức đã chiếm đóng toàn bộ Tiệp Khắc. Ý theo gương Đức, đã tiến hành xâm lược Ethiopia năm 1935 và sát nhập Albania vào ngày 12 tháng 4 năm 1939.

Vào ngày 22 tháng 5, Ý và Đức ký Hiệp ước Thép, chính thức hoá liên minh quân sự giữa hai nước. Vào ngày 23 tháng 8, Đức và Liên Xô ký Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, một thoả thuận không xâm lược trong đó có một điều khoản bí mật chia sẻ Đông Âu giữa hai nước này. Thoả thuận này làm các nước Tây phương ngạc nhiên, nếu nhớ rằng hai nước này đã ủng hộ hai phía khác nhau trong Nội chiến Tây Ban Nha vừa mới kết thúc.

Tình hình châu Á
Xem thêm về nội dung này tại Chiến tranh biên giới Xô-Nhật.

Xe tăng Liên Xô dàn đội hình tấn công quân Nhật trong chiến dịch Khalkhyn GolTại châu Á, Nhật Bản đã có mặt tại Trung Quốc khi chiến tranh bắt đầu. Các khu vực bị Nhật chiếm đóng trong quốc gia suy yếu này ngày càng nhiều trong những năm cuối thập niên 1930. Chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945) đã bùng nổ sau khi hai phía Quốc dân đảng và Cộng sản bớt đánh nhau để tập trung vào việc đánh đuổi Nhật Bản ra khỏi Trung Quốc. Lúc đầu, Trung Quốc giành được một số thắng lợi, nhưng sau này chiều hướng quay sang phía Nhật và họ đã chiếm đóng hầu hết miền đông Trung Quốc. Trong cuộc tấn công của Nhật có nhiều sự kiện khi dân thường bị tàn sát tàn nhẫn, trong đó có sự kiện Thảm sát Nam Kinh, đã khiến dư luận quốc tế ra áp lực đòi hỏi Nhật rời khỏi Trung Quốc. Hoa Kỳ, trong khi biệt lập đối với châu Âu, đã bày tỏ sự quan tâm đối với các hoạt động của Nhật, và bắt đầu dùng các biện pháp trừng phạt như không cho hàng hóa được tàu chở đến Nhật, nhất là dầu mỏ.


Viên sỹ quan Nhật thuyết trình về chiến lược Tân Thái Bình Dương cho binh sĩ.Nhật đã chiếm đóng hầu hết các khu vực thành thị và công nghiệp tại Trung Quốc trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu. Tuy thế, Trung Quốc không có hai tài nguyên quan trọng trong việc phát triển và bảo đảm an ninh của Nhật: đó là dầu mỏ và cao su. Có hai quan điểm trong các tướng lãnh Nhật về cách đạt được các tài nguyên này: một là đánh vào phía Bắc, tức là vào lãnh thổ Liên Xô và chiếm lấy một phần lớn của Siberi và hai là đánh xuống phía Nam vào các thuộc địa của Âu Châu tại Đông Nam Á. Sau Chiến tranh biên giới Xô-Nhật, nhiều người nghĩ rằng Nhật đã cho rằng cách đánh vào phía Bắc không thể đạt được.



Máy bay tiêm kích Bf 110 của Không quân Đức vượt biên giới Ba LanVào ngày 1 tháng 9, chỉ một tuần sau khi Hiệp ước Molotov-Ribbentrop được ký kết, Đức xâm lược Ba Lan, khiến Anh và Pháp phải tuyên chiến với Đức để làm tròn bổn phận theo hiệp ước với Ba Lan. Vào ngày 17 tháng 9, lực lượng Liên Xô tiến vào Ba Lan từ miền đông khi biên giới đã bỏ trống do Ba Lan chuyển quân sang phía Tây chống Đức, với lý do bảo vệ kiều dân của họ. Sự xâm nhập từ miền đông của một nước mạnh khiến chính phủ Ba Lan phải ra lệnh quân đội rút khỏi đất nước và tổ chức lại ở Pháp. Đến ngày 6 tháng 10, Ba Lan đã bị Đức, Liên Xô và các đồng minh của các nước này chiếm giữ hoàn toàn. Lãnh thổ Ba Lan do Đức kiểm soát nằm dưới quản lý của 1 viên Toàn quyền Đức trong khi lãnh thổ Ba Lan bị Liên Xô chiếm giữ được sáp nhập vào nước này.

Ngay sau đó, lực lượng Liên Xô bắt đầu chiến tranh xâm lược các nước cộng hòa gần biển Baltic nhưng đã bị Phần Lan phản kháng quyết liệt, dẫn đến Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan (1940) vào ngày 30 tháng 11 cho đến tháng 3 năm 1940. Cũng vào lúc này, Đức và các nước Đồng Minh Tây phương đang trải qua một sự yên tĩnh buồn cười, với không một phía nào chịu ra tay trước. Sự yên tĩnh này kết thúc khi cả hai bên đều tính giành các nước Scandinavia còn lại và các khu mỏ quặng sắt quý giá ở Thụy Điển. Vào tháng 4, hai phía ngẫu nhiên bắt đầu hành quân cùng lúc và kết quả là Đức chiếm đóng được Đan Mạch trong khi một cuộc xung đột xảy ra tại Na Uy (xung đột đầu tiên giữa Đồng Minh và Trục). Cuộc xung đột tại Na Uy cho thấy lực lượng hai phía là cân bằng, diễn biến nghiêng về phía Đức khi nước này khởi sự một cuộc tấn công vào Pháp vào ngày 10 tháng 5, bắt buộc các lực lượng Anh và Pháp đang ở Na Uy phải rút lui.


Phân chia phạm vi chiếm đóng giữa Liên Xô (trái) và Đức Quốc Xã (phải) ở Ba LanCuộc tấn công vào Pháp và các nước Hà Lan, Bỉ và Luxembourg diễn ra rất nhanh chóng và hiệu quả. Người Đức đã huy động vào mặt trận này 3.350.000 quân, nhiều hơn bất kỳ mặt trận nào khác trong Thế chiến II. Trong vòng một tháng lực lượng Anh phải rút khỏi lục địa. Ý, với ý định thâu chiếm lãnh thổ, tuyên chiến với Pháp (nay đã tê liệt). Đến cuối tháng 6, Pháp đã đầu hàng, bị lực lượng Đức chiếm đóng hầu hết phần lớn các lãnh thổ, phần còn lại do chính quyền bù nhìn Vichy điều hành.

Sau khi Pháp sụp đổ, chỉ còn Anh chống lại Đức. Đức khởi đầu một cuộc tấn công hai nhánh vào Anh. Nhánh thứ nhất là những cuộc hải chiến trên Đại Tây Dương giữa các tàu ngầm, nay có thể sử dụng các cảng tại Pháp, và Hải quân Hoàng gia Anh. Các tàu ngầm được dùng để cản trở việc đưa hàng hóa theo đường biển. Nhánh thứ hai là một cuộc không chiến trên bầu trời Anh khi Đức dùng Không quân của họ để tiêu diệt Không quân Hoàng gia Anh, với ý định sử dụng ưu thế không gian để đổ bộ. Đến năm 1941, khi Anh vẫn còn đứng vững, và vì một số nỗi lo âu khác nổi lên, Đức rút lực lượng Không quân ra khỏi nước Anh.

[sửa] Chiến trường Địa Trung Hải
Bài chi tiết: Chiến trường Địa Trung Hải, Trung Đông và Châu Phi trong Thế chiến thứ hai
Trong khi Đức đang tập trung lực lượng đánh Anh, Ý mở cuộc tấn công Hy Lạp vào ngày 28 tháng 10 năm 1940. Cuộc tấn công này hoàn toàn thất bại: Hy Lạp chẳng những đánh lui Ý trở lại Albania, mà còn tham chiến theo phía Đồng Minh (trước đó Hy Lạp trung lập), cho phép Anh đổ bộ tại nước này để viện trợ và phòng thủ. Trong khi Ý đang đương đầu với Hy Lạp, nước Nam Tư láng giềng bị một cuộc đảo chính vào ngày 27 tháng 3 năm 1941, đồng thời trục xuất chính quyền đã ký Hiệp ước Ba Bên chỉ ba ngày trước. Đức cho một số quân đi ổn định khu vực Balkan. Kế hoạch được đặt ra và Đức mở cuộc tấn công cả hai nước Nam Tư và Hy Lạp vào ngày 6 tháng 4, quét sạnh và chiếm giữ khu vực này sau trận đánh tại Crete.

Chiến dịch Bắc Phi

Quân Anh ở mặt trận Bắc Phi
Tướng Erwin Rommel và Quân đoàn Phi Châu ở Bắc Phi
Quân Ý tịch thu 1 xe tăng Anh tại Bắc PhiBài chi tiết: Mặt trận Bắc Phi
Vào tháng 8 năm 1940, với lực lượng lớn của Pháp tại Bắc Phi chính thức trung lập trong cuộc chiến, Ý mở một cuộc tấn công vào thuộc địa Somalia của Anh tại Đông Phi. Đến tháng 9 quân Ý vào đến Ai Cập (cũng đang dưới sự kiểm soát của Anh). Cả hai cuộc xâm lược này đều thất bại sau khi lực lượng Anh đẩy Ý ra khỏi cả hai khu vực và chiếm được nhiều thuộc địa Ý, trong đó có Đông Phi thuộc Ý và Libya.

Với sự thất bại của Ý, và thấy phe Trục có nguy cơ bị đẩy khỏi toàn bộ Phi Châu, Đức gửi Quân đoàn Phi châu dưới sự chỉ huy của Erwin Rommel đến Libya để tăng viện cho đồng minh của mình vào tháng 2 năm 1941. Đơn vị này, cùng với quân Ý, đã đánh một trận đánh ác liệt ven bờ biển Cyrenaica với lực lượng Anh vào năm 1941 và 1942. Cùng với trận chiến này, Hải quân Hoàng gia Anh và Regia Maria của Ý cũng đánh nhau để giành tuyến đường tiếp tế trên Địa Trung Hải, điển hình là trận đấu tại căn cứ quan trọng tại Malta. Vào đầu năm 1942, việc Anh thắng lợi trong cuộc đánh bại lực lượng Regia Maria khiến phía Đồng Minh thêm quân nhu và vật chất. Việc này cho phép các lực lượng Anh đẩy mạnh sau Trận chiến El Alamein, chiếm gần hết toàn bộ Libya và đuổi quân Trục vào Tunisia. Vào tháng 11 năm 1942, tình trạng càng tệ hơn cho quân Trục khi Hoa Kỳ thực hiện Chiến dịch Bó Đuốc, đổ bộ vào Maroc, bao vây các lực lượng phe Trục. Cho đến tháng 5 năm 1943, toàn bộ các lực lượng phe Trục tại Bắc Phi đã bị đánh bại sau Chiến dịch Tunisia.

Trong lúc đó, tại Trung Đông, lực lượng Đồng Minh tấn công vào Syria và Liban, hai khu vực đang dưới sự kiểm soát của Pháp, cũng như Iraq, nơi chính quyền có thiện cảm với Đức. Việc này giúp lực lượng Đồng Minh củng cố quyền lực trong khu vực này.
Mặt trận phía Đông
Bài chi tiết: Chiến tranh Xô-Đức

Sĩ quan Đức Quốc Xã đang hành hình một gia đình Ukraina năm 1941.Cuộc tấn công kịch liệt nhất trong chiến tranh này xảy ra vào tháng 6 năm 1941, khi Đức cắt đứt thỏa thuận không xâm lược với Liên Xô và tiến hành chiến dịch Barbarossa, một kế hoạch tấn công khổng lồ với 3.000.000 quân để chiếm đóng Moskva trước cuối năm. Chiến tranh Xô-Đức bắt đầu, các lực lượng Đức tiến lên nhanh chóng do những yếu kém và sai lầm vô cùng ngớ ngẩn trong điều binh của các chỉ huy Liên Xô cũng như trang bị huấn luyện kém cỏi và lạc hậu của Hồng quân, quân Đức bắt giữ được hàng triệu và tiêu diệt vô số quân Xô Viết. Họ tiến được một khoảng cách khá xa, nhưng cuối cùng không chạy đua được với thời gian, cho nên không hoàn thành mục tiêu. Khi mùa đông đến, quân Đức không chịu nỗi cái lạnh khắc nghiệt, Liên Xô phản công và bắt Đức phải dừng lại ngay tại ngoại ô Moskva.


Quân lính Xô Viết tại StalingradTuy bị nhiều thất bại vào cuối năm 1941, nhưng Đức tái tấn công vào năm 1942, tiến đến sát dãy núi Kav-kaz, nhưng cũng bị Liên Xô phản công vào mùa đông, làm nhiều quân Đức chết, phản ảnh trong việc tập đoàn quân số 6 Đức bị tiêu diệt tại Stalingrad. Trong mùa hè năm 1943, trận Vòng cung Kursk đã tiêu diệt nhiều đơn vị Đức không thể thay thế được, nhất là các đơn vị thiết giáp. Từ đó cho đến khi hết chiến tranh, quân Liên Xô có thể hành quân tấn công tại mặt trận miền đông suốt năm. Đến cuối năm 1944, Liên Xô đã giành lại được phần lớn số lãnh thổ bị Đức chiếm đóng và ngày càng đẩy lùi lực lượng ngày càng suy yếu của Đức về phía tây, cho đến khi cuối cùng xuyên qua Đông Âu, và ngay cả Đức, khi chiến tranh sắp kết thúc. Nhiều đồng minh của Đức bị sụp đổ khi lực lượng Liên Xô tiến vào Romania, Hungary và khu vực Balkan. Sau cùng Liên Xô đã chiếm được Berlin vào năm 1945.

Quân đội Xô Viết tổn thất 10,7 triệu binh lính trong suốt 4 năm chiến tranh. Khoảng 7,7 triệu bị chết hoặc mất tích trong chiến đấu và 2,7 triệu tù binh chết trên tổng số 5,2 triệu bị bắt hoặc đầu hàng quân Đức. Khoảng 400.000 quân Nhảy dù và du kích cũng thiệt mạng phía sau phòng tuyến của Đức.[4]

Trong tổng số 12,4 triệu thường dân Liên Xô chết trong chiến tranh, từ 2,5 cho tới 3,2 triệu người đã chết không phải do sự chiếm đóng của quân Đức mà do sự trả thù của chính quyền Xô viết với những người họ cho là đã cộng tác với quân Đức [5]

Chiến dịch Ý
Với khu Bắc Phi được củng cố, các lực lượng Anh-Mỹ đổ bộ vào đảo Sicilia trong năm 1943, bắt đầu một cuộc tấn công vào phần "bụng mềm phía dưới của châu Âu". Cuộc tấn công vào Sicilia thành công, khiến chính quyền của Benito Mussolini sụp đổ và chính phủ mới của Ý ký hiệp định đình chiến với quân Đồng Minh. Các lực lượng Đức can thiệp để quân Đồng Minh không giành được toàn bộ Ý. Sau cuộc đổ bộ tại Salerno, tiến trình hành quân của Đồng Minh bị chậm lại bởi địa thế khó khăn đang được quân Đức có kinh nghiệm hơn chống giữ.

[sửa] Mặt trận phía Tây
Bài chi tiết: Mặt trận phía Tây (Chiến tranh thế giới thứ hai)

Quân Mỹ đổ bộ lên bờ biển NormandieVào ngày 6 tháng 6 năm 1944, các lực lượng Đồng Minh Tây phương đổ bộ vào bờ biển Normandie, một vùng của Pháp đang bị Đức chiếm đóng. Chiến dịch được soạn ra từ nhiều năm trước, lực lượng nòng cốt là các đơn vị Mỹ, Anh cùng một số đơn vị khác như Canada, v.v. Chiến dịch bắt đầu bằng việc ném bom hàng loạt từ các căn cứ không quân bên kia eo biển nước Anh cùng với sự yểm trợ của khoảng 6000 khu trục hạm. Chiến dịch diễn ra rất khốc liệt, ngay những giờ phút đầu tiên đã có 3000 quân Đồng Minh tử trận. Cuộc chiến cù cưa giữa đôi bên diễn ra khá lâu, quân Đức bị đánh bại nhưng quân Đồng Minh cũng thiệt hại nặng. Khi chiến dịch này thành công, họ tiến sâu vào Pháp, đuổi quân Đức ra khỏi Pháp, nhưng thường bị thiếu tiếp tế cũng như bị quân Đức đang rút lui cản trở. Các cuộc đổ bộ khác tại miền Nam Pháp cuối cùng đã giải phóng nước này.

Khi tiến đến ranh giới Đức, lực lượng Đồng Minh phải dừng lại để chờ tiếp tế. Việc này tạo một cơ hội cho lực lượng Đức củng cố phòng thủ chống lại cuộc tấn công kế tiếp. Việc này dẫn đến sự ra đời của chiến dịch Market Garden, mục tiêu là sử dụng không quân thả lính dù vào sâu lãnh thổ nước Đức nhằm đánh chiếm trước các vị trí chiến lược như cầu, kho bãi, v.v. kết hợp với lực lượng xe tăng thọc sâu để tạo nên đòn quyết định kết thúc chiến tranh. MarketGarden trở thành chiến dịch đổ bộ bằng không quân lớn nhất lịch sử với hơn hàng ngàn máy bay tham gia. Quân Đồng Minh cố gắng xuyên thủng Hà Lan và qua sông Rhine để kết thúc chiến tranh vào năm 1944. Nhưng chiến dịch này bị thất bại và lực lượng Đồng Minh tiến đến Đức chậm hơn đã dự kiến.

Ước tính có khoảng 500.000 quân Đồng Minh bị thương vong trong những chiến dịch tiếp theo trận Normandie.

Lực lượng phe Trục thua cuộc tại châu Âu

Quân Mỹ giải phóng Paris ngày 25 tháng 8 năm 1944Tình hình Đức cuối năm 1944 là vô vọng. Các Đồng Minh Tây phương đang tiến vào biên giới Đức từ phía tây, chỉ tấn công thêm một lần nữa là chiếm được khu vực công nghiệp Rhineland. Liên Xô cũng đang ở một vị trí tương tự ở phía đông, không lâu sẽ vào đến tận Berlin. Các trận đánh bom hàng loạt từ Anh và Mỹ đã biến nhiều khu vực Đức thành gạch vụn, khiến ngành công nghiệp phải giải tán.

Đang bị bao vây từ các phía đông, tây và trên cao, Hitler đánh canh bạc cuối cùng để hy vọng không thua cuộc. Để tái tạo lại chiến thuật thành công vào năm 1940 đối với các nước Hà Lan, Bỉ và Luxembourg, các lực lượng Đức tấn công vào giữa mùa đông để chia rẽ các lực lượng Đồng Minh ở Bỉ. Phòng tuyến Đồng Minh bị uốn cong, nhưng không bị phá vỡ và cuối cùng phe Đồng Minh giành thắng lợi trong cuộc tấn công tại Ardennes. Tại miền đông, Đức dành hết mọi nỗ lực cuối cùng để phòng thủ thủ đô. Việc này cũng bị thất bại và lực lượng Liên Xô chiếm đóng Berlin vào cuối tháng 4 năm 1945.

Sau khi Berlin sụp đổ và Hitler tự tử, Đức chỉ còn lại là một mảnh đất nhỏ tại châu Âu từ mũi bắc Na Uy cho đến phần trên của Ý. Vào ngày 8 tháng 5 năm 1945, các lực lượng Đức đầu hàng vô điều kiện.

Chiến trường châu Á-Thái Bình Dương
Bài chi tiết: Chiến tranh Thái Bình Dương

Quân đội Trung Hoa Dân Quốc trong trận đánh phòng thủ Thượng Hải năm 1937 trong chiến tranh Trung-NhậtChiến trường châu Á-Thái Bình Dương khác với chiến trường châu Âu rất nhiều. Chiến trường này hầu hết được đánh tại các đảo Nhật Bản đã chiếm đóng trong khu vực Tây Thái Bình Dương và Đông Á cho nên hải chiến và các trận đánh gần biển xảy ra nhiều hơn các trận đánh trên đất liền như ở châu Âu.

Sự bành trướng của Nhật Bản

Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ haiChiến tranh Trung-Nhật đang tiếp diễn tại Đông Á khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu tại châu Âu, cho nên một vài sử gia cho rằng ngày Nhật xâm lăng Trung Quốc (ngày 7 tháng 7 năm 1937) là ngày bắt đầu chiến tranh tại chiến trường Thái Bình Dương. Tuy nhiên, nếu tính là một phần của Chiến tranh thế giới thứ hai, thì ngày 7 tháng 12 năm 1941 thường được nhắc đến như là ngày bắt đầu, khi Nhật tuyên chiến với Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh bằng việc lực lượng của Hạm đội Liên Hợp Nhật Bản dưới sự chỉ huy của Đô đốc Yamamoto Isoroku tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), Philippines và một số thuộc địa của các cường quốc châu Âu tại Đông Á và Tây Thái Bình Dương.

Nhật hành động nhanh chóng để chiếm các đảo ở Thái Bình Dương có giá trị phòng thủ nhằm làm cạn ý chí chiến đấu của Mỹ. Tại Trung Quốc và Đông Nam Á, Nhật tiếp tục bành trướng các khu vực được nó kiểm soát nhằm kịp thời khai thác tài nguyên để sử dụng.

Sáu tháng sau khi giao chiến, các hạm đội Nhật và Mỹ đánh nhau giữa Thái Bình Dương. Sau Trận chiến Midway, nòng cốt hạm đội tàu sân bay của Nhật đã bị tàn phá, và quân Nhật không tiến được nữa trên Thái Bình Dương. Nhật tiếp tục tìm cách trả đũa, nhưng quân Mỹ dùng biện pháp đánh theo vòng ngoài của Nhật, cùng lúc nhảy từ đảo này qua đảo nọ để đẩy Nhật phải lui lại.

Nhật Bản thua cuộc
Khi Nhật bành trướng, họ để lại nhiều tiền đồn phòng thủ tại mỗi hòn đảo họ kiểm soát trên Thái Bình Dương. Kế hoạch của Mỹ để đối phó với các đảo này là chiếm những đảo cốt yếu cho việc tiến đến Nhật, trong khi làm giữ vững các đảo khác không bị chiếm. Thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ phải đánh nhiều trận đấu đẫm máu trên những hòn đảo này để chiếm giữ những đảo và sân bay để quân đội có thể tiến tới.


Tại phía nam của cuộc bành trướng của quân đội Nhận Bản, trên đảo Tân Guinea, Nhật đã bị quân lực Úc chặn lại, không chiếm giữ nổi toàn bộ đảo. Hai lực lượng này đánh nhau trong các khu rừng trong những hoàn cảnh khốc liệt để giành giật đảo này. Trong khi Tân Guinea không quan trọng lắm, nhưng quân Úc sợ sau khi Nhật chiếm giữ đảo này, Úc sẽ bị đe dọa.

Tại Đông Nam Á, Nhật đã tiến nhanh trong các thuộc địa của Anh cho đến khi bị kháng cự mãnh liệt tại Miến Điện. Quân lực Anh, trong đó có rất nhiều đơn vị người Ấn Độ, đã đuổi lùi quân Nhật tại trận đánh Kohima-Imphal và vì thế Nhật không đe dọa được Ấn Độ và các đường tiếp tế cần thiết cho quân Trung Quốc đang đánh các lực lượng Nhật tại đó.


Đám mây hình nấm do quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki, Nhật Bản vào năm 1945Đến gần cuối chiến tranh, Mỹ chiếm được các căn cứ gần Nhật và bắt đầu ném bom vào các đảo nước này. Tuy không mạnh mẽ như tại Đức, việc ném bom rất có hiệu quả tại vì nhà cửa ở Nhật dễ sập hơn và người Nhật ít chuẩn bị trước hơn với mối đe dọa này. Thêm vào đó, việc mất các thuộc địa và quan trọng hơn là việc mất hàng hải đã làm tê liệt khả năng thu thập tài nguyên cần thiết. Vì thế, ngành công nghiệp Nhật không thể sản xuất bằng mức mà Đức có thể duy trì được vào lúc chiến tranh sắp chấm dứt.

Quân Đồng Minh có kế hoạch đổ bộ vào Nhật, nhưng sự phát triển bom nguyên tử làm thay đổi tình hình. Ngày 6 và 9 tháng 8, hai quả bom đã được Hoa Kỳ thả xuống Hiroshima và Nagasaki. Quân đội Liên Xô sau khi kết thúc chiến tranh ở Đức đã tuyên bố chiến tranh với Nhật, và sau khi Mỹ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima đã tấn công đội quân Quan Đông của Nhật đang đóng ở Mãn Châu ngày 9 tháng 8. Thấy rõ không thể cứu vãn được, ngày 15 tháng 8, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng Minh. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nhật Bản ký văn kiện đầu hàng không điều kiện, sáu năm và một ngày sau khi cuộc thế chiến bắt đầu (kể từ ngày Đức xâm lược Ba Lan). Tuy nhiên hậu quả của hai vụ ném bom này thì cho đến gần đây, những người dân Nhật vẫn phải gánh chịu.

Ảnh hưởng đến dân thường
Xem thêm Công ước Genève về đối xử nhân đạo với tù binh, hàng binh chiến tranh

Nạn nhân quân đội Nhật Bản tại Nam KinhChiến tranh thế giới thứ hai đem đến cho dân thường nhiều nỗi đau thương chưa từng thấy. Trong hơn 50 triệu người chết vì chiến tranh trên một nửa là thường dân, bị giết bằng nhiều cách khác nhau. Nhiều người bị chết bởi bom đạn và nhiều hơn nữa vì việc thiếu lương thực và không có dịch vụ cần thiết cộng thêm việc phá hoại nhà cửa và các phương tiện cho dân trong chiến tranh. Nhiều hơn nữa bị chết vì các chiến dịch có mục tiêu là dân thường để giảm sự ủng hộ của quần chúng đối với chính quyền và tàn phá khả năng sản xuất vào việc chiến tranh. Thêm vào đó, nhiều người đã bị hành hình vì lý do quốc tịch, dân tộc và tín ngưỡng.
Trại tập trung Đức quốc xã (Holocaust)
Bài chi tiết: Holocaust

Xác chết tù nhân trong trại tập trung Bergen Belsen của Đức Quốc xãChiến dịch tàn sát tù binh chiến tranh và thường dân điển hình nhất và có tổ chức nhất là các chương trình được vạch ra và thực hiện bởi Đức quốc xã. Ban đầu chỉ nhắm mục tiêu vào người Do Thái tại nước này, cộng thêm một số nhóm người ít người không ưa thích. Chế độ Đức quốc xã bắt đầu thành lập trại để cách ly các nhóm người này, sau đó dùng lao động cưỡng bách và cuối cùng tiêu diệt hàng loạt. Các nhóm người Do Thái, người đồng tính luyến ái và người có khuyết tật là các mục tiêu đầu tiên, nhưng những người đối lập chính trị như những người theo chủ nghĩa xã hội và các nhân vật tôn giáo (kể cả tín đồ Cơ đốc giáo) lên tiếng cũng bị bắt giữ.

Một khi chiến tranh bùng nổ và phần đất Đức xâm chiếm tăng lên, các lãnh thổ mới chiếm này cũng bị tính trong nỗ lực đó. Riêng Ba Lan đã bị ảnh hưởng rất nhiều, với gần toàn bộ dân số Do Thái tại nước này và một số đông người Cơ đốc giáo đã bị tiêu diệt. Hàng chục triệu Người Nga và các người Slav bị chinh phục khác cũng bị giam cầm tại hơn 100 trại tập trung của Đức trên khắp các vùnh lãnh thổ châu Âu bị nước Đức Quốc xã chiếm đóng. Các trại lớn nhất là Dachau, Buchenwald, Ravensbrück, Ausschwitz, Majdanek, Bergen Belsen, Gusen... Số người được giải phóng khỏi các trại này sau chiến tranh chỉ còn vài trăm nghìn.

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và tài liệu về:
Tội ác chiến tranh của chế độ Quốc xã Đức
Tổng số người đã bị giết trong các trại tập trung, trong các chương trình tiêu diệt và trong khi bị chính quyền Đức ngược đãi có lẽ không bao giờ có thể biết chính xác được. Có một số ước đoán cao hơn 10 triệu người, trong đó 5 tới 6 triệu là người Do Thái bị giết trong các chương trình tiêu diệt có mục đích.

Xô Viết
Đức không phải là nước duy nhất có tổ chức tàn sát dân thường. Liên Xô dưới thời Stalin cũng có những hành động đó.[cần dẫn nguồn] Tù binh Đức bị ngược đãi rất nhiều, trong trận đánh Stalingrad khoảng 260.000 quân tập đoàn quân 6 Đức bị bao vây sau đó 91.000 bị bắt làm tù binh, chỉ còn 6.000 người sống sót để trở về, cũng như thường dân trong các khu vực được tái chiếm từ Đức, một số lớn bị buộc tội làm tay sai. Tại các nơi có nhiều người ủng hộ quân Đức, giá người dân phải trả càng cao.


Thi thể của những phụ nữ và trẻ em Đức bị sát hại bởi quân đội Xô viết tại MetgethenCó tới 600.000 thường dân tại 3 quốc gia ven biển Baltic là Latvia, Lithuania và Estonia[6], 2 triệu rưỡi người Ba Lan[7], 80.000 người Tiệp Khắc cùng 300.000 người Romania đã bị sát hại bởi lực lượng Liên Xô[8]

[sửa] Nhật
Trong khi Holocaust do Đức gây ra rất có tổ chức và được nhiều người biết đến, số người bị giết có thể sánh được với số thường dân bị lực lượng Nhật tàn sát tại Trung Quốc. Tương tự như cách nhìn của Đức đối với các dân tộc phía Đông nước Đức, người Nhật xem người Trung Quốc là mọi rợ và giới lãnh đạo chẳng những xem các tội ác chiến tranh là lẽ thường mà còn khuyến khích việc đó. Các ước tính số người bị chết do các hành vi này còn rất thiếu chính xác, nhưng có thể cao hơn 10 triệu. Một số khu vực dưới sự kiểm soát của Nhật bị nạn đói thảm khốc, như Nạn đói Ất Dậu tại miền Bắc Việt Nam.

Cuộc chiến tranh dã man Không chỉ phe Trục và các chế độ độc tài ngược đãi thường dân trong lúc chiến tranh đang diễn biến. Các công dân của các nước Đồng Minh cũng bị đau khổ trong các trường hợp họ là con cháu của những người từ các nước phe Trục. Điển hình là người Mỹ gốc Nhật đã bị tập trung ở các trại giam giữ trong thời kỳ chiến tranh. Theo nhiều tài liệu thì ở Mỹ lẫn Anh đều xuất hiện nhiều vụ tra tấn tù binh tàn bạo.

Chiến tranh tổng lực

Nạn nhân của vụ ném bom nguyên tử xuống HiroshimaTập tin:Bom nguyên tử.jpg
Toà nhà đứng vững sau vụ nổĐược bắt đầu bởi Đức để khủng bố và giảm tinh thần quần chúng trong các vùng thành thị để Đức có thể tiến tới nhanh hơn, chiến tranh chiến lược dùng sức mạnh trên không gian để đánh vào các thành phố địch. Các chiến dịch của Đức có hiệu quả hữu hạn vì mẫu các máy bay ném bom không phù hợp vào việc này và lực lượng không quân còn nhỏ.

Gần giữa chiến tranh, quân Đồng Minh bắt đầu dùng chiến thuật ném bom hàng loạt vào tận Đức. Để tránh sự chồng chéo nguy hiểm, có sự phân công: máy bay Anh thả bom ban đêm còn máy bay Mỹ đánh phá ban ngày. Với nhiều máy bay oanh tạc có tải trọng lớn và đủ khả năng bay đường dài, các trận ném bom này đã phá hủy nhiều thành phố Đức. Khi chiến tranh chấm dứt, họ có thể biến các khu vực đô thị thành một quầng lửa, làm tan tành thành phố. Số thường dân bị chết khá cao, tại Đức có khoảng 300.000 người. Riêng trong một trận oanh tạc thành phố Dresden, có vài chục ngàn dân thường Đức thiệt mạng. Việc các chiến dịch này có giúp đem đến chiến thắng mau hơn vẫn còn chưa rõ.

Dân thường tại Nhật Bản còn bị tấn công hơn nữa. Đức có các cơ sở công nghiệp xa nơi dân ở cho nên khu công nghiệp bị tấn công trước khu người ở. Trái lại, người dân Nhật ở đông đúc vào các khu vực thành phố trong các ngôi nhà được xây dựng bằng gỗ (tại Đức nhà cửa phần lớn được xây bằng đá), dễ bị đốt cháy và lan tràn khắp thành phố khi các quả bom được ném xuống. Thêm vào đó, Mỹ cũng sử dụng các máy bay thả bom mới hơn và lớn hơn tại Đức.

Nếu tính đến cuối cùng, cú đánh mạnh nhất là hai cuộc tấn công bằng bom nguyên tử vào hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Tổng số người Nhật bị thiệt mạng lên đến 400.000 người lúc ban đầu, và thêm nhiều người chết vì di chứng nhiễm phóng xạ trong nhiều năm kế tiếp. Có sự tranh cãi về việc có cần thiết phải thả bom nguyên tử trên đất Nhật hay không. Phía Mỹ vẫn cho rằng việc này đã dẫn đến việc Nhật đầu hàng một cách mau chóng, tránh thương vong cao cho quân Mỹ nếu đánh vào Nhật bằng chiến tranh quy ước (như kinh nghiệm đánh lên hai đảo Iwo Jima và Okinawa đã cho thấy). Nhưng có ý kiến phản bác cho rằng lý do chính là Mỹ muốn "dằn mặt" Nga lúc đó có tin đang bắt đầu chế tạo bom nguyên tử.

Kết quả
Hậu quả trực tiếp của chiến tranh này là sự chiến thắng của phía Đồng Minh. Mỗi nước trong phe Trục đều phải đầu hàng vô điều kiện. Đức bị các lực lượng từ Mỹ, Anh, Liên Xô và Pháp chiếm đóng, trong khi Áo bị chia cắt từ Đức và cũng bị chiếm đóng một cách tương tự. Nhật bị quân Mỹ chiếm đóng trong khi Liên Xô chiếm đóng các nước Đông Âu.


Quân Mỹ và Liên Xô gặp nhau tại Torgau bên bờ sông ElbeTrái với Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi các giới hạn làm suy yếu các nước và các nước thua cuộc bị ngăn chặn việc tái hội nhập cộng đồng quốc tế, các nước thua cuộc đã được cung cấp viện trợ để phục hồi và hội nhập cộng đồng thế giới như các quốc gia hoà bình khác. Vì lẽ đó, Đức và Nhật đã trở thành hai nước quan trọng và có nhiều ảnh hưởng mà không cần phải khiêu chiến.

Sự thất bại của Hội Quốc Liên trong việc ngăn chặn chiến tranh đã dẫn đến việc thành lập Liên Hiệp Quốc, một tổ chức quốc tế mới và có nhiều sửa đổi, cho đến nay vẫn là tổ chức quan trọng nhất trong việc thúc đẩy hoà bình và hợp tác.

Hậu quả lâu dài
Ngay sau chiến tranh, liên minh Đồng Minh đã bị rạn nứt khi có xung đột về tư tưởng. Mỗi phía đã giành một khu vực khác nhau trong các lãnh thổ phe Trục. Tại châu Âu, mỗi phía liên minh với nhau trong khu vực ảnh hưởng. Về phía Tây, các nước Mỹ, Anh và Pháp đã lập ra Liên minh Bắc Đại Tây Dương (NATO). Về phía đông, Liên Xô lập ra liên minh với các nước Đông Âu khác trong Hiệp ước Warszawa. Xung đột giữa hai phái sau này là một trong những hậu quả của cuộc chiến tranh này.

Khắp mọi nơi, các phong trào chống thực dân được mạnh hơn khi chiến tranh kết thúc. Một vài cuộc xung đột đã trở thành chiến trường cho các cường quốc trong Chiến tranh Lạnh, nhưng nhiều cuộc khác xảy ra trước cuộc chiến. Hai nước Anh và Pháp đã phải từ bỏ phần lớn các thuộc địa sau chiến tranh. Ấn Độ giành được độc lập từ Anh và Philippines giành độc lập từ Mỹ. Tại Đông Dương và nhiều thuộc địa tại châu Phi, các lực lượng kháng chiến phải chiến đấu mới giành được độc lập.

Một quốc gia quan trọng đã xuất hiện là Israel. Sau cuộc thảm sát Holocaust, dân Do Thái trên thế giới rất khao khát có được một quốc gia riêng. Nhiều người Do Thái đã có kinh nghiệm chiến đấu trong chiến tranh là việc quan trọng mà quốc gia này luôn phải đương đầu để được độc lập và tồn tại
Về Đầu Trang Go down
♥Jiri.M♥
Admin
♥Jiri.M♥


Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 52
Điểm + Điểm + : 2
Birthday Birthday : 14/02/1993
Join date : 08/04/2010
Age Age : 31
Đến từ Đến từ : 11A1 THPT Đa Phước

Chiến tranh thế giới thứ hai Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Chiến tranh thế giới thứ hai   Chiến tranh thế giới thứ hai EmptyFri Apr 16, 2010 8:48 pm

bóc tem cho bạn Heo nà
Smile) kakakakaa
Về Đầu Trang Go down
https://11a1.all-up.com
 
Chiến tranh thế giới thứ hai
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
♥11A1♥ THPT ĐA PHƯỚC ♥ WE ARE ONE :: Welcome to 11a1's 4rum :: Học Tập :: Khoa Học Xã Hội :: Sử-
Chuyển đến